Gây hại cho sức khỏe Loài gây hại

Giun kim

Giun kim là loài ký sinh phổ biến. Đường lây truyền phổ biến của chúng là các vật dụng trong nhà như: quần áo, đồ chơi, gối, mùng, màn. Trứng giun rất nhẹ, có thể bay trong không khí và ai cũng có thể nuốt phải. Khi vào trong ruột, giun kim gây tổn thương niêm mạc ruột, làm rối loạn tiêu hóa, nổi mẩn dị ứng, viêm sinh dục, âm hộ, âm đạo, rối loạn tiểu tiện và thậm chí rối loạn kinh nguyệt (đối với bé gái)... Nếu giun kim lọt vào ruột thừa có thể gây nên tình trạng viêm ruột thừa. Lúc giun kim bò ra ngoài vùng hậu môn đẻ trứng sẽ gây nên ngứa, người bệnh gãi sẽ gây trầy, xước, loét, nhiễm trùng thứ phát và tái nhiễm thường xuyên.

Trẻ bị nhiễm giun dễ bị rối loạn giấc ngủ ban đêm do ngứa hậu môn, kéo dài sẽ ảnh hưởng trầm trọng sự phát triển chiều cao, trí tuệ của trẻ, làm trẻ gầy, xanh, bụng ỏng và lười ăn dẫn đến suy dinh dưỡng.Loại giun ký sinh người Việt dễ mắc và cách phòng tránh Giun kim: Dài khoảng 8–13 mm, giun kim là một ký sinh trùng phổ biến, gây ra bệnh giun kim ở con người. Chúng làm tổ trong ruột của thân chủ. Không giống như nhiều ký sinh trùng khác, chúng không thể thâm nhập vào máu và không thể tồn tại trong các bộ phận khác của cơ thể đối dù chỉ trong thời gian ngắn.

Chúng đẻ trứng ở bên ngoài cơ thể người, thường là vùng xung quanh hậu môn, gây ngứa ngáy: điều này giúp thực hiện sự lây lan của ấu trùng qua tay người. Việc gãi liên tục khiến rìa hậu môn bị tấy đỏ, sung huyết. Khi nhiễm, chất thải của người bệnh thường nát hoặc lỏng, thỉnh thoảng có máu hoặc chất nhày. Nặng hơn, bệnh sẽ gây nên tình trạng chán ăn hoặc ăn không tiêu, đau bụng âm ỉ, thỉnh thoảng buồn nôn hoặc nôn thốc. Nhiễm lâu ngày, cơ thể người bệnh dần suy nhược thần kinh hay thần kinh bị kích thích gây khó ngủ. Nguy hiểm hơn, chúng có thể gây nên chứng di tinh (nam giới), viêm âm đạo (nữ giới) ở người trưởng thành. Ở nữ giới, giun kim có thể chui vào âm đạo mang theo vi sinh vật gây bệnh, rối loạn kinh nguyệt (kinh nguyệt không đều, đau bụng kinh...). Ngoài ra, giun kim cũng có thể xâm nhập và gây viêm phổi, thực quản, hốc mũi, cổ tử cung, gây viêm ruột thừa, làm thủng ruột[15]

Sán

Sán dây bò (Taenia saginata): Sán dây thịt bò rất phổ biến, đặc biệt ở các địa phương nuôi nhiều gia súc. Người bị nhiễm sán khi ăn thịt chưa nấu chín có chứa ấu trùng sán. Sán sống trong ruột người, đứt từng đoạn có trứng theo phân ra ngoài. Súc vật ăn phải trứng và mang bệnh. Khi người ăn phải thịt bò có trứng của sán, thì trứng sẽ nở thành sán con và gây ra bệnh ở người. Thường thường ruột người chỉ có một hay hai con sán dây nhưng chúng có thể sống rất lâu. Người bệnh có mấy triệu chứng không đặc biệt như đau bụng ngâm ngầm, đi tiêu chảy, mất ký, buồn nôn...Bệnh được xác định bằng cách tìm thấy trứng hoặc từng khúc sán lẫn trong phân hoặc dính ở hậu môn.

Sán dải lợn (Taenia solium). Người mắc bệnh khi ăn thịt heo có sán này. Sán sống trong ruột. Nhưng những khúc sán có thể vào bao tử, chạy ra ngoài da, vào các bộ phận khác hoặc vào tế bào thần kinh và gây ra các triệu chứng trầm trọng như kinh phong, viêm màng não, thay đổi tâm trí.Bệnh có thể ngừa bằng cách nấu thịt heo cho thật chín, nhất là ở các địa phương thường có bệnh sán lãi.

Sán lá phổi Phổi là nơi sán thường ký sinh nhưng cũng có trường hợp sán ký sinh ở dưới da, màng bụng, màng phổi, gan, ruột, tinh hoàn, não... Nếu sán ký sinh ở não, bệnh nhân thường có những cơn động kinh. Sán trưởng thành đẻ trứng ở những phế quản, trứng sán được tống xuất ra ngoài theo đờm do bệnh nhân khạc nhổ ra môi trường xung quanh và tiếp tục phát triển ở các vật chủ trung gian truyền bệnh là ốc, cua, tôm. Trứng sán sau một thời gian ở dưới nước, thường là 16 ngày (mùa nóng) và 60 ngày (mùa lạnh) sẽ phát triển thành ấu trùng lông. Ấu trùng lông sau khi ra khỏi trứng tìm đến những loại ốc để ký sinh.

Bệnh nhân bị nhiễm sán lá phổi nhẹ thường không có triệu chứng rõ rệt. Trong điều kiện cơ địa phù hợp, sán lá phổi sẽ phát triển, gây ra các triệu chứng từ nhẹ đến nặng, bắt đầu là sốt nhẹ, ho khan, rồi ho ra máu kèm theo đau ngực, khó thở, mệt mỏi, sút cân, viêm phế quản (dễ lầm với lao phổi), xuất huyết não, phù não, viêm màng não, giảm thị lực, mất trí nhớ, động kinh, liệt nửa người. Ngoài ra, sán lá phổi có thể di chuyển đến các cơ quan khác như khoang bụng, da, màng tim, thượng thận, tinh hoàn, dương vật, hốc mắt, hình thành những khối áp xe.

Triệu chứng phát hiện đầu tiên của bệnh sán lá phổi là bệnh nhân ho có khạc nhổ đờm lẫn với máu. Sau đó cơn ho trở thành mạn tính và người bệnh thường ho nhiều vào buổi sáng sớm. Đờm khạc ra thường có màu rỉ sắt giống như viêm phổi, thỉnh thoảng bệnh nhân bị ho ra máu. Bệnh cảnh lâm sàng rất giống như bệnh lao phổi. Chụp phim phổi cũng thường thấy hình ảnh như những trường hợp bị lao hạch. Những bệnh nhân có sán trưởng thành ký sinh ở những phủ tạng khác thì triệu chứng lâm sàng diễn biến khá phức tạp, nếu sán ký sinh ở não thường gây nên những cơn động kinh, nếu sán ký sinh ở gan thường gây nên áp-xe gan.

Xác định bệnh sán lá phổi thường căn cứ vào các triệu chứng lâm sàng giống bệnh lao phổi nhưng xét nghiệm đờm không phát hiện được vi khuẩn lao. Bệnh nhân không bị gầy sút nhanh chóng và không có những cơn sốt xảy ra vào buổi chiều như bệnh lao phổi. Tuy vậy, bệnh sán lá phổi có thể kết hợp với bệnh lao phổi và trong những trường hợp này rất khó xác định bệnh dựa vào các trịệu chứng trên lâm sàng. Muốn chẩn đoán chính xác bệnh sán lá phổi thì cần phải dựa vào kết quả xét nghiệm. Nếu xét nghiệm đờm phát hiện được trứng sán lá phổi là có thể khẳng định một cách chắc chắn, trong đờm có thể thấy những tinh thể Charcot Leyden

Côn trùng

  • Ruồi ăn xác chết: Thích ăn các ấu trùng trên xác chết phân hủy của động vật và kể cả con người. Hoạt động của ruồi giấm không giống như các loài ruồi khác, chúng hoạt động chủ yếu vào ban đêm kéo dài từ tháng 10 đến tháng 11.
  • Ruồi nhặng hay còn gọi là lằng, nhặng xị, lằng xanh: Dài khoảng 6 - 10mm, có thân màu xanh kim loại (xanh dương hay xanh lá cây), mắt màu đỏ, cánh trắng có đường vân màu đen, chúng thường đẻ trứng ở những khu vực dơ bẩn hoặc có mồi hôi tanh như: bãi rác, thịt heo, các loài thủy sản ở chợ. Từ 5 - 7 ngày sau trứng nở thành nhộng và trong 1 tháng thì có khoảng 2 - 3 thế hệ được sinh ra. Loài nhặng khỏe và hoạt động trong khoảng nhiều km cách nơi sinh sản. Chúng hiện diện nhiều trng những tháng mùa hè ấm áp.
  • Ruồi đàn: Dài từ 5 - 10mm, ngực có màu xám, cánh có màu nâu trắng, lưng có màu có sọc trắng đen, bụng có màu nâu vàng, mắt màu đỏ xẫm. Trứng được đẻ trong đất và sinh trưởng rất nhanh, ruồi đàn xất hiện trong nhà nhiều nhất vào mùa xuân.
  • Ruồi trâu: Ruồi đốt rất đau và gây cản trở cho các hoạt động ở ngoài trời. Ruồi trâu đốt và hút máu gia súc và cả con người, chúng thường đốt máu vào ban ngày nhất là vào những giờ có nhiều nắng khi nhìn thấy mồi. Do cần nhiều máu nên ruồi có thể đốt máu nhiều lần, mỗi lần một ít trên cùng một vật chủ hoặc những vật chủ khác nhau.Vết đốt của ruồi trâu có thể gây chảy máu, gây đau nhức dai dẳng, có thể kéo dài nhiều ngày và sinh ra những biến chứng khác như sốt cao, co giật, hôn mê.
  • Muỗi vằn châu Á hay còn gọi là muỗi sốt xuất huyết (Aedes albopictus) du nhập vào Mỹ và các nước theo vỏ lốp xe cũ nhập khẩu. Chúng truyền bệnh sốt xuất huyết, viêm não ngựa phương đông, sán tim chó… đều là những căn bệnh nguy hiểm. Loài muỗi vằn châu Á được du nhập vào Mỹ và nhiều nước khác theo vỏ lốp xe cũ nhập khẩu. Loài muỗi này liên quan đến việc truyền bệnh sốt xuất huyết, viêm não ngựa phương đông, sán tim chó, và có thể cả vi rút viêm não St. Louis và LaCrosse.
Một con muỗi Anopheles đang đốt người
  • Muỗi Anopheles hay Muỗi sốt rét (Anopheles quadrimaculatus) Loài muỗi tương đối to này là véc tơ truyền bệnh chính của bệnh sốt rét. Loài này chủ yếu sinh sản ở các vực nước ngọt tĩnh và đốt người và vật nuôi vào ban đêm.
  • Aedes albopictus có thể truyền bệnh sốt xuất huyết. Tuy nhiên loài muỗi Aedes albopictus ít có vai trò truyền bệnh do ít đốt hút máu người và có thể sống ngoài thiên nhiên, rừng núi.
  • Muỗi đòn xóc (Anopheles): Là chi muỗi trong họ Anophelinae ở Việt Nam và có 62 loài, trong đó có một số loài được sử dụng tên mới để thay thế cho tên loài trước đây, như: An.epiroticus thay cho An.sundaicus; An.pseudojamesi thay cho An.ramsayi; An.nimpe thay cho An.sp1. Muỗi đòn xóc có tên gọi là Anopheles, chúng có 3 loài chính truyền bệnh sốt rét ở Việt Nam là:
    • Anopheles minimus hoạt động ở vùng rừng núi trên toàn quốc. Anopheles minimus thích đốt máu người, tập tính này thay đổi tùy từng địa phương và phụ thuộc vào tình hình chăn nuôi gia súc như trâu, .
    • Anopheles dirus hoạt động ở vùng rừng núi từ vĩ độ Bắc 20 trở vào Nam. Tại Việt Nam, muỗi có đỉnh hoạt động chích đốt máu phổ biến từ 20 giờ - 24 giờ đêm. Ở một số địa phương, có khoảng 85% muỗi bắt được hoạt động trước 24 giờ, chỉ có 15% muỗi bắt được hoạt động sau 24 giờ.
    • Anopheles sundaicus hoạt động ở vùng ven biển nước lợ từ Phan Thiết vào phía Nam: Muỗi Anopheles sundaicus có tập tính chích đốt máu cả người và động vật, tập tính này thay đổi theo từng vùng địa lý. Tại Việt Nam, muỗi được xác định là thích chích đốt máu người ở cả trong nhà và ngoài nhà; hoạt động chích đốt máu của muỗi hầu như xảy ra suốt đêm, không có đỉnh rõ ràng.
  • Muỗi truyền bệnh viêm não Nhật Bản thuộc chi Culex: Khoảng 550 loài Culex trên thế giới đã được mô tả, riêng ở Việt Nam khoảng hơn 100 loài, đa số là ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới[16]. Một số loài là vật truyền bệnh quan trọng đối với giun chỉ bancrofti và các bệnh arbovirus như viêm não Nhật Bản. Ở một số vùng, loài này là một mối phiền hà đáng kể. Hai loài quan trọng truyền bệnh viêm não Nhật Bản là muỗi Culex tritaeniorhynchusCulex vishnui.
    • Culex quinquefasciatus là loài phổ biến nhất, là mối phiền toái chính và vật truyền bệnh giun chỉ bancrofti, thích đặc biệt đẻ ở nơi nước bẩn có nhiều chất hữu cơ, như chất thải, phân, cây mục, có thể kể đến các hố xí bể, hố xí ngăn, cống tắc nghẽn, mương, máng, giếng bỏ hoang, nơi hệ thống thoát nước và vệ sinh không được bảo đảm.
    • Culex tritaeniorhynchus, loài truyền bệnh viêm não Nhật Bản ở châu Á ưa nước trong. Thường thấy loài này ở ruộng lúa nước, mương rãnh. Culex tritaeniorhynchus đẻ ở nơi sạch hơn như ruộng lúa, đầm lầy. Ở Việt Nam, các nhà khoa học đã xác định Culex tritaeniorhynchus là muỗi chủ yếu truyền bệnh viêm não Nhật Bản. Đặc điểm muỗi Culex tritaeniorhynchus có màu nâu đen, phát hiện nhiều ở vùng nông thôn, làng mạc tập trung đông dân cư và có nhiều hồ ao.
  • Bọ đậu đen: bọ đậu đen tập trung với mật độ rất dày đặc gây cảm giác khó chịu, gây trở ngại cho sinh hoạt của con người và vật nuôi, dù không gây tác hại cho cây trồng. Bọ đậu đen không cắn người nhưng khi bị dẫm lên sẽ tiết dịch, chất dịch này có thể làm phần da tiếp xúc bị phỏng rộp. Nhiều em nhỏ bị bọ đậu đen chui vào tai, vào mũi và nằm chết luôn trong đó, gây nguy hiểm nghiêm trọng tới tính mạng.
  • Chấy hay chí là loại côn trùng ký sinh thường gặp, cư trú trên da và tóc của đầu người. Chúng sống bằng cách hút máu vật chủ người cũng như thú vật. Khi bị chấy ký sinh, vật chủ thường sinh ra ngứa ngáy, khó chịu và có thể phát sinh các loại nhiễm trùng da và gây rụng tóc. Chấy xuất hiện do điều kiện vệ sinh kém và lây từ người này sang người kia. Chấy có thể truyền các căn bệnh nguy hiểm như bệnh sốt phát ban, sốt hồi quy, sốt chiến hào.
  • Rận: Vết đốt của chúng không chỉ gây đau nhói, sưng hay dị ứng mà còn có thể gây cho người bệnh sốt mẩn đỏ.
  • Rận mu: Là loài ký sinh ở con người trên các vùng lông mu và tạo nên bệnh rận mu.
  • Ve bét hay Ve chó hay con bét: Vết đốt của chúng không chỉ gây đau nhói, sưng hay dị ứng mà còn có thể gây cho người bệnh sốt mẩn đỏ.
  • Bọ chét: Những vết đốt của chúng không chỉ gây đau nhói, sưng hay dị ứng mà còn có thể gây cho người bệnh sốt mẩn đỏ. Bọ chét chuột còn là vật trung gian truyền bệnh hạch.
  • Cái ghẻ (Sarcoptes scabiei var. Hominis): Thường được biết đến như là loài ve gây ngứa cho con người, loại ký sinh trùng được lây nhiễm qua đường tiếp xúc ngoài da. Các cái ghẻ đẻ trứng của chúng trên da người, gây ra phản ứng viêm và ngứa dữ dội. Bị ngứa, đau nhức, nỗi mụn nhỏ, tấy ngoài da. Cái ghẻ phổ biến ở Việt Nam vì lối sống mất vệ sinh của người dân.
  • Rệp giường Là loài côn trùng đốt máu và gây phiền hà trong sinh hoạt hàng ngày, rệp phát triển qua 3 giai đoạn: trứng, thanh trùng và con trưởng thành. Trứng rệp thường được rệp trưởng thành đẻ vào cùng một chỗ ở khe tường, tủ, giường, phản, bàn, ghế có khi nó đẻ vào cả giấy, vải... Rệp đốt người gây cảm giác khó chịu, đặc biệt là mất ngủ vào ban đêm. Rệp có thể lưu giữ các mầm bệnh như dịch hạch, sốt phát ban, sốt hồi quy, tularemia, sốt Q, viêm gan B.
Rệp giường được coi như là bệnh dịch hạch của các nước phương Tây. Rệp giường là loài côn trùng gây hại đáng sợ khi có thể lây lan khắp nơi, vô cùng khó tiêu diệt và gần như không thể kiểm soát. Chúng được xếp vào tốp 10 loại côn trùng gây hại bậc nhất ở khắp mọi nơi. Loài rệp giường có thể cắn người và hút máu vào bất cứ lúc nào, cả ngày lẫn đêm nếu có điều kiện.Rệp giường là loài có từ rất lâu, nhất là trong những giai đoạn trước khi đời sống còn thiếu thốn. Dù nhà cửa sạch sẽ thơm tho cũng không giúp bạn tránh được việc bị rệp xâm nhập. Chúng xuất hiện ngay cả ở phòng khách sạn 5 sao cao cấp, tàu du lịch, máy bay hay tàu hỏa sau đó bám vào quần áo hay hành lý của hành khách và theo họ về nhà.Loài rệp này cũng có nhiều ở những nơi công trường hoặc chỗ ở trọ, khách sạn nhà nghỉ... vì các nơi này thường tụ tập đông người, vệ sinh không kỹ. Ngoài ra ở một số gia đình, việc sử dụng giường gỗ, chiếu gỗ cũng là yếu tố phát sinh nhiều rệp vì có những khe nhỏ để chúng ẩn nấp. Để tiêu diệt hoàn toàn rệp giường cần rất nhiều thời gian.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Loài gây hại http://www.publish.csiro.au/nid/20/pid/7134.htm http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/10-sinh-vat-... http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/chuyen-la/gi... http://giadinh.vnexpress.net/tin-tuc/noi-tro/duoi-... http://suckhoe.vnexpress.net/tin-tuc/tu-van/benh-n... http://m.baodatviet.vn/khoa-hoc/khoa-hoc/loai-mot-... http://bvtvphutho.vn/Home/Tim-hieu-sau-benh/trenca... http://dantri.com.vn/tinh-yeu-gioi-tinh/tai-sao-ph... http://nld.com.vn/154937P0C1037/con-mat-nha-tac-nh... http://vinhphuc.edu.vn/thpttamdao/p/6485